Gãy xương đòn là gì? Các công bố khoa học về Gãy xương đòn

Gãy xương đòn là một loại chấn thương xương xảy ra khi một lực tác động mạnh vào một điểm cố định trên xương, gây ra sự tách rời hoặc vỡ xương tại vị trí tác độ...

Gãy xương đòn là một loại chấn thương xương xảy ra khi một lực tác động mạnh vào một điểm cố định trên xương, gây ra sự tách rời hoặc vỡ xương tại vị trí tác động. Chấn thương gãy xương đòn thường xảy ra trong các trường hợp va chạm mạnh, ngã từ chiều cao, hoặc trong các hoạt động thể thao tự nhiên hoặc mạo hiểm. Việc xác định và xử lý một cách chính xác gãy xương đòn là cần thiết để đảm bảo quá trình hồi phục và phục hồi xương hiệu quả.
Gãy xương đòn có thể xảy ra ở bất kỳ phần nào của cơ thể, như xương tay, xương chân, xương cột sống, xương sườn, xương cổ chân, và xương đùi, tùy thuộc vào loại chấn thương và vị trí tác động.

Có hai loại gãy xương đòn chính:

1. Gãy xương không di chuyển: Xương bị vỡ nhưng các mảnh xương vẫn ở trong vị trí của chúng ban đầu và không di chuyển. Điều này có thể xảy ra nếu lực tác động không mạnh. Khi phát hiện gãy xương không di chuyển, việc định vị xương bằng cách đặt băng cố định hoặc phôi xương có thể giúp xương khô và hàn liền một cách tự nhiên.

2. Gãy xương di chuyển: Xương bị vỡ và các mảnh xương di chuyển khỏi vị trí ban đầu. Điều này có thể xảy ra nếu lực tác động mạnh hoặc áp lực lên xương. Để xử lý gãy xương di chuyển, cần phải định vị lại và cố định các mảnh xương bằng cách sử dụng công cụ như băng cố định (gibs), túi bóp hoặc thanh kim loại.

Việc phục hồi sau gãy xương đòn thường bao gồm:

- Hồi phục xương: Quá trình hàn xương diễn biến qua các giai đoạn tạo mô sụn, tạo mô xương và việc tạo liên kết xương mới. Điều này có thể mất thời gian và đòi hỏi tuân thủ các chỉ đạo của bác sĩ để đảm bảo quá trình hàn xương suôn sẻ.

- Vật lý trị liệu: Sau khi xương đã khô và hàn liền, vật lý trị liệu có thể được sử dụng để tăng cường sức mạnh và khả năng di chuyển của xương bị tổn thương.

- Phẫu thuật: Trong một số trường hợp nghiêm trọng, phẫu thuật có thể được thực hiện để điều chỉnh và cố định xương bằng khoá titan hoặc vật liệu phẫu thuật khác.

Việc nhận điều trị sớm và tuân thủ chính xác các chỉ đạo từ bác sĩ rất quan trọng để đảm bảo quá trình hồi phục tối ưu và tránh các biến chứng tiềm năng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "gãy xương đòn":

Sản xuất một gãy xương kín tiêu chuẩn ở xương động vật thí nghiệm Dịch bởi AI
Journal of Orthopaedic Research - Tập 2 Số 1 - Trang 97-101 - 1984
Tóm tắt

Để phát triển một kỹ thuật cho việc sản xuất một vết gãy xương thí nghiệm kín tiêu chuẩn, một thiết bị mới đã được thiết kế và thử nghiệm trên 40 con chuột Sprague-Dawley đực. Đầu tiên, xương đùi được điều trị bằng một chốt Steinmann đặt trong tủy xương. Sau đó, thân xương đùi đã bị gãy bằng cách sử dụng một chiếc guillotine cùn được điều khiển bởi một trọng lượng rơi xuống. Về mặt hình ảnh chụp X-quang, kỹ thuật này đã cho ra một vết gãy ngang có thể tái tạo cao. Có sự nén gãy tối thiểu và độ nghiêng tối thiểu của chốt tủy. Về mặt mô học, tổn thương mô mềm là rất ít. Kiểm tra cơ học cho thấy tất cả các vết gãy đều đã liền. Việc tháo chốt diễn ra dễ dàng mà không gây rối loạn vùng gãy đã lành. Thiết bị này đơn giản để sử dụng và kinh tế khi xây dựng. Nhờ vào việc sử dụng thiết bị này, một mô hình gãy xương kín có thể tái tạo cao đã được thiết lập.

Điều trị Gãy Xương Đốt Sống Đau Đớn Bằng Kyphoplasty cho Bệnh Nhân Loãng Xương Nguyên Phát: Một Nghiên Cứu Tiền Tiến Không Ngẫu Nhiên Có Kiểm Soát Dịch bởi AI
Oxford University Press (OUP) - Tập 20 Số 4 - Trang 604-612 - 2005
Tóm tắt

Nghiên cứu này điều tra các tác động của kyphoplasty đối với cơn đau và khả năng vận động ở bệnh nhân loãng xương và gãy xương đốt sống đau, so với quản lý y tế thông thường.

Giới thiệu: Điều trị dược phẩm cho bệnh nhân loãng xương nguyên phát không ngăn ngừa đau và suy giảm hoạt động ở bệnh nhân bị gãy xương đốt sống đau đớn. Vì vậy, chúng tôi đã đánh giá kết quả lâm sàng sau khi thực hiện kyphoplasty ở bệnh nhân bị gãy xương đốt sống và đau mãn tính kèm theo trong hơn 12 tháng.

Vật liệu và Phương pháp: Sáu mươi bệnh nhân loãng xương nguyên phát và gãy xương đốt sống đau đớn trình diện trên 12 tháng đã được bao gồm trong nghiên cứu tiến cứu không ngẫu nhiên này. Hai mươi bốn giờ trước khi thực hiện kyphoplasty, bệnh nhân tự xác định việc tham gia vào nhóm kyphoplasty hoặc nhóm kiểm soát do đó 40 bệnh nhân được điều trị bằng kyphoplasty, trong khi 20 làm nhóm kiểm soát. Nghiên cứu này đánh giá thay đổi hình thái học trên X-quang, chỉ số đau theo thang đo analog hình ảnh (VAS), các hoạt động hàng ngày (thang đo của Nghiên cứu Loãng Xương Đốt Sống châu Âu [EVOS]), số lượng gãy xương đốt sống mới và việc sử dụng dịch vụ y tế. Các kết quả được đánh giá trước điều trị và tại thời điểm 3 và 6 tháng theo dõi. Tất cả bệnh nhân đều nhận được điều trị y tế tiêu chuẩn (1g canxi, 1000 IE vitamin D3, liều tiêu chuẩn của aminobisphosphonate uống, thuốc giảm đau, vật lý trị liệu).

Kết quả: Kyphoplasty tăng chiều cao đốt sống ở vị trí giữa của các thân đốt sống được điều trị lên 12,1%, trong khi ở nhóm kiểm soát, chiều cao đốt sống giảm xuống 8,2% (p = 0.001). Tăng cường và ổn định bên trong bằng kyphoplasty dẫn đến giảm đau lưng. Chỉ số đau VAS được cải thiện trong nhóm kyphoplasty từ 26,2 ± 2 đến 44,2 ± 3.3 (SD; p = 0.007) và ở nhóm kiểm soát từ 33,6 ± 4.1 đến 35.6 ± 4.1 (không có ý nghĩa thống kê), trong khi điểm số EVOS tăng trong nhóm kyphoplasty từ 43,8 ± 2.4 đến 54.5 ± 2.7 (p = 0.031) và ở nhóm kiểm soát từ 39,8 ± 4.5 đến 43.8 ± 4.6 (không có ý nghĩa). Số lượt khám bác sĩ liên quan đến đau lưng trong khoảng thời gian theo dõi 6 tháng giảm đáng kể sau khi kyphoplasty so với nhóm kiểm soát: trung bình 3.3 lượt khám/bệnh nhân ở nhóm kyphoplasty và trung bình 8.6 lượt khám/bệnh nhân ở nhóm kiểm soát (p = 0.0147).

Kết luận: Kết quả của nghiên cứu này cho thấy chiều cao đốt sống tăng đáng kể, giảm đau và cải thiện khả năng vận động ở bệnh nhân sau kyphoplasty. Kyphoplasty thực hiện ở những bệnh nhân loãng xương được chọn lọc phù hợp với gãy xương đốt sống đau đớn là một bổ sung đầy hứa hẹn cho liệu pháp y tế hiện nay.

#kyphoplasty #loãng xương #gãy xương đốt sống #đau lưng #cải thiện vận động #nghiên cứu kiểm soát không ngẫu nhiên
Tình trạng phổ biến và quản lý gãy xương quá khứ trong các hoạt động thể thao và thời gian trở lại thể thao: Một tổng quan hệ thống Dịch bởi AI
American Journal of Sports Medicine - Tập 46 Số 3 - Trang 753-758 - 2018
Đặt vấn đề:

Gãy xương quá khứ trong các hoạt động thể thao là hiếm. Các báo cáo trước đây chủ yếu giới hạn ở các báo cáo trường hợp cá nhân, các loạt trường hợp nhỏ và các phân tích hồi cứu.

Mục đích:

Để tổng quan hệ thống văn liệu và xác định tình trạng gãy xương quá khứ trong các hoạt động thể thao nhằm xác định tỷ lệ gãy xương, các hoạt động thể thao/cơ chế gây gãy, quản lý và thời gian trở lại thể thao.

Thiết kế nghiên cứu:

Tổng quan hệ thống.

Phương pháp:

Một tổng quan hệ thống đã được thực hiện điều tra tất cả các nghiên cứu trong văn liệu được xuất bản từ tháng 1 năm 1970 đến tháng 4 năm 2017 báo cáo về các vận động viên bị gãy xương quá khứ trong các hoạt động thể thao. Tổng quan hệ thống tuân theo hướng dẫn PRISMA (Các mục báo cáo ưu tiên cho tổng quan hệ thống và phân tích tổng hợp) và sử dụng các cơ sở dữ liệu PubMed, Biosis Previews, SPORTDiscus, PEDro và EMBASE. Tiêu chí bao gồm là các nghiên cứu mô tả (1) gãy xương quá khứ với hoạt động thể thao báo cáo gây chấn thương, (2) quản lý gãy xương (phương pháp phẫu thuật vs không phẫu thuật), và (3) kết quả của bệnh nhân. Tiêu chí loại trừ là (1) các nghiên cứu liên quan đến gãy xương thứ phát do các hoạt động không có tính thể thao (ngã cơ học, tai nạn xe cơ giới) và (2) các nghiên cứu không báo cáo quản lý gãy xương hoặc kết quả của bệnh nhân. Các hoạt động thể thao, sự hiện diện hoặc vắng mặt của chấn thương khớp cùng đòn (AC), quản lý gãy xương, kết quả của bệnh nhân, và thời gian trở lại thể thao đã được phân tích.

Kết quả:

Tổng cộng có 21 trường hợp gãy xương quá khứ do hoạt động thể thao đã được xác định; chấn thương cấp tính chịu trách nhiệm cho 71% (n = 15/21) các trường hợp gãy xương, và các chấn thương còn lại là thứ phát do gãy xương mệt mỏi. Chấn thương khớp AC đồng thời có mặt trong 60% (n = 9/15) các vận động viên bị chấn thương cấp tính và không có vận động viên nào bị gãy xương mệt mỏi. Các trường hợp gãy xương đã được điều trị bảo tồn trong 76% (n = 16/21) bệnh nhân, với chỉ 19% (n = 3/16) vận động viên báo cáo gặp biến chứng. Thời gian trung bình tổng thể để trở lại thể thao là 2.8 ± 2.0 tháng; không có sự khác biệt đáng kể nào trong việc trở lại thể thao giữa các vận động viên có gãy xương do chấn thương so với gãy xương mệt mỏi hoặc giữa những người có hoặc không có chấn thương khớp AC.

Kết luận:

Gãy xương quá khứ thứ phát do các hoạt động thể thao là hiếm, xảy ra chủ yếu do chấn thương trực tiếp có chấn thương khớp AC kèm theo, và được điều trị thành công bằng quản lý không phẫu thuật. Không phát hiện sự khác biệt trong việc trở lại thể thao bất kể cơ chế gãy xương, phương pháp điều trị hay sự hiện diện của chấn thương khớp AC kèm theo.

Cố định bằng vít nội tuỷ kết hợp ghép xương tự thân để điều trị gãy xương đốt bàn chân thứ năm gần thân xương ở vận động viên: một loạt các trường hợp Dịch bởi AI
Sports Medicine, Arthroscopy, Rehabilitation, Therapy & Technology - Tập 4 Số 1 - 2012
Tóm tắtĐặt vấn đề

Các trường hợp liền xương chậm hoặc gãy lại không phải là hiếm gặp sau khi điều trị phẫu thuật cho các bệnh nhân gãy xương đốt bàn chân thứ năm gần thân xương. Cố định bằng vít nội tuỷ kết hợp ghép xương tự thân có tiềm năng để giải quyết vấn đề này. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá kết quả của phương pháp này.

Phương pháp

Tác giả đã tiến hành xem xét hồi cứu 15 vận động viên đã trải qua điều trị phẫu thuật cho gãy xương đốt bàn chân thứ năm gần thân xương. Phẫu thuật bao gồm việc cố định bằng vít xốp có ống nội tuỷ sau khi nạo ổ gãy, tiếp theo là ghép xương tự thân. Sau phẫu thuật, các bệnh nhân giữ chế độ không chịu lực trong bột hoặc nẹp trong hai tuần và không cần giữ cố định thêm hai tuần nữa. Tất cả bệnh nhân được phép chịu lực cách đầy đủ sau sáu tuần phẫu thuật. Chạy được cho phép sau khi có hình ảnh X-quang cho thấy xương đã liền, và việc trở lại thi đấu được chấp thuận sau khi tăng dần cường độ vận động.

#Gãy xương đốt bàn chân thứ năm #cố định nội tuỷ #ghép xương tự thân #thể thao #điều trị phẫu thuật
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, X QUANG VÀ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY THÂN XƯƠNG ĐÙI BẰNG PHƯƠNG PHÁP ĐÓNG ĐINH NỘI TỦY CÓ CHỐT DƯỚI MÀN TĂNG SÁNG TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ NĂM 2018-2020
Đặt vấn đề: Gãy thân xương đùi là chấn thương thường gặp, đặc biệt ở lứa tuổi trưởng thành. Ngày nay gãy thân xương đùi chủ yếu được điều trị bằng phẫu thuật chỉnh hình ổ gãy, cố định vững chắc giúp bệnh nhân vận động sớm để phục hồi chức năng. Đóng đinh nội tủy xương đùi có chốt dưới màn tăng sáng được áp dụng điều trị cách đây nhiều năm và thu được kết quả rất khả quan. Mục tiêu: Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị gãy thân xương bằng phương pháp đóng đinh nội tủy có chốt dưới màn tăng sáng tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ năm 2018-2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: từ tháng 5/2018 đến tháng 3/2020 có 40 bệnh nhân gãy thân xương đùi được điều trị bằng phương pháp đóng đinh nội tủy có chốt dưới màn tăng sáng. Kết quả: độ tuổi trung bình là 34,45±16,21. Tỉ lệ nam/nữ là 33/7. Nguyên nhân do tai nạn giao thông chiếm 82,5%. Lâm sàng chủ yếu là sưng nề và biến dạng. Trên Xquang, gãy 1/3 giữa chiếm 72,5%. Kết quả nắn chỉnh: rất tốt 72,5%, tốt 25% tốt và khá 2,5%. Kết quả xa: rất tốt đạt 80%, tốt đạt 15% và trung bình đạt 5%. Có 1 trường hợp nhiễm trùng nông tại vết mổ và 1 trường hợp chậm liền xương. Kết luận: Đóng đinh nội tủy có chốt dưới màn tăng sáng là phương an toàn và hiệu quả trong điều trị gãy thân xương đùi.  
#Gãy thân xương đùi #đinh nội tủy có chốt #màn hình tăng sáng
Tác động lâm sàng của phòng hồi sức đối với khả năng đi lại sau phẫu thuật ở bệnh nhân cao tuổi trải qua phẫu thuật hông: một phân tích thực tế Dịch bởi AI
Aging Clinical and Experimental Research - Tập 30 - Trang 999-1003 - 2017
Các chiến lược nhằm hỗ trợ phục hồi chức năng sau phẫu thuật gãy xương hông có thể mang ý nghĩa lâm sàng. Để kiểm tra tính hữu ích lâm sàng của phòng hồi sức (RR) liên quan đến hiệu suất đi bộ sau phẫu thuật ở một quần thể người cao tuổi đã trải qua phẫu thuật gãy xương hông. Hiệu suất đi bộ sau phẫu thuật được đánh giá ở 242 bệnh nhân cao tuổi liên tiếp có khả năng tuân theo phác đồ vật lý trị liệu của tổ chức và bắt đầu vào ngày thứ nhất sau phẫu thuật hông. Nhóm 1 (n = 186, tuổi 86,0 ± 9,3 năm, 24,7% nam) được nhập vào RR để theo dõi sau phẫu thuật, trong khi Nhóm 2 (n = 56, tuổi 85,2 ± 5,7 năm, 23,2% nam) được nhập trực tiếp vào khoa. Hiệu suất tốt nhất được ghi nhận trong ba ngày đầu sau phẫu thuật đã được xem xét. Nhóm 1 cho thấy hiệu suất đi bộ tốt hơn Nhóm 2, với xác suất thấp hơn 50% của việc đi < 5 m (rủi ro tương đối 0,51, p = 0,0005) và xác suất cao gấp đôi của việc đi > 10 m (rủi ro tương đối 2,10, p = 0,0005). Phân tích đa biến xác nhận tác động độc lập có lợi của việc ở RR lên hiệu suất đi bộ (β = 0,205, p = 0,005). Việc nhập viện vào RR cho những bệnh nhân cao tuổi đã trải qua phẫu thuật gãy xương hông có thể có tác động có lợi độc lập đối với phục hồi chức năng đi bộ sau phẫu thuật. Tác động tích cực này có thể phụ thuộc vào khả năng đảm bảo quản lý nhanh chóng các vấn đề sau phẫu thuật. Những phát hiện này hỗ trợ tính hữu ích lâm sàng của việc áp dụng RR tại các cơ sở nơi phẫu thuật hông cho bệnh nhân cao tuổi được thực hiện thường xuyên.
#phòng hồi sức #gãy xương hông #hiệu suất đi bộ sau phẫu thuật #người cao tuổi #phục hồi chức năng
PHẪU THUẬT CỐ ĐỊNH XƯƠNG SƯỜN ĐIỀU TRỊ MẢNG SƯỜN DI ĐỘNG DO CHẤN THƯƠNG NGỰC KÍN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1A - 2023
Đặt vấn đề: Phẫu thuật cố định xương sườn trong điều trị mảng sườn di động do chấn thương ngực kin đã được báo cáo nhiều nơi trên thế giới. Tại Việt Nam cũng đã có những tổng kết về phẫu thuật cố định xương sườn nói chung, nhưng vẫn còn ít tài liệu tập trung vào kết quả phẫu thuật của bệnh lý gãy xương sườn do chấn thương có mảng sườn di động. Phương pháp: Hồi cứu mô tả 40 bệnh nhân chấn thương ngực kín có mảng sườn di động được phẫu thuật cố định xương sườn gãy bằng nẹp titan và bắt vít tại khoa ngoại Lồng Ngực bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 01 năm 2018 đến tháng 02 năm 2022. Kết quả:  Đa phần bệnh nhân gãy xương sườn do chấn thương có giới tính là nam, chiếm tỉ lệ là . Độ tuổi trung bình là 49,8 ± 11,3 tuổi. Điểm ISS trung bình của bệnh nhân là 23,4 ±5,8, được xếp vào mức độ đa chấn thương nặng. Trên chụp cắt lớp điện toán lồng ngực có dựng hình xương sườn, tổng số xương sườn gãy là 400 xương sườn; số lượng xương xườn gãy trung bình là 10 xương sườn. Ghi nhận 92,5 % bệnh nhân được cố định xương sườn chỉ ở vùng mảng sườn di động. Tỉ lệ số ổ gãy xương sườn được cố định/ số vị trí di lệch trên một thân xương là: 135/200 (67,5%). Tổng số ổ gãy được cố định trên các xương sườn 4,5,6,7 là 118, chiếm đến 87,4%. Đa số bệnh nhân được phẫu thuật cố định xương sườn sử dụng 3 hoặc 4 nẹp kim loại, chiếm 82,5%. 13 bệnh nhân phải nằm phòng hồi sức tích cực sau mổ, chiếm tỉ lệ 32,5%. Thời gian dẫn lưu màng phổi trung bình là 3,6 ± 2,1 ngày. Biến chứng viêm phổi sau phẫu chiếm tỉ lệ là 15,0%. Không ghi nhận trường hợp nào bị nhiễm trùng vết mổ, nhiễm trùng khoang màng phổi hay di lệch nẹp kim loại. Ghi nhận 01 TH tử vong do đa chấn thương. Số vị trí di lệch hơn một thân xương ghi nhận được trên Chụp cắt lớp điện toán lồng ngực và số nẹp xương sườn sử dụng tương quan thuận khá chặt chẽ với nhau, r=0,829 (p<0,01). Kết luận: Phẫu thuật cố định xương sườn trong điều trị mảng sườn di động do chấn thương ngực kín cho thấy an toàn và hiệu quả cao. CLVT ngực có vai trò chẩn đoán, định hướng cho lựa chọn vị trí xương gãy cần cố định.
#gãy nhiều xương sườn; mảng sườn di động #chấn thương ngực kín
CHẨN ĐOÁN VÀ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT TỔN THƯƠNG ĐỘNG MẠCH DO GÃY TRÊN LỒI CẦU XƯƠNG CÁNH TAY Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 503 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm chẩn đoán, hình thái giải phẫu bệnh, phương pháp phẫu thuật và kết quả sớm sau mổ ở bệnh nhân gãy trên lồi cầu xương cánh tay tổn thương mạch máu. Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tất cả bệnh nhi chẩn đoángãy trên lồi cầu xương cánh tay kèm tổn thương mạch máu, đã phẫu thuật tại Bệnh viện Việt Đức từ 01/01/2015 đến 31/12/2020. Kết quả: 56 BN đủ tiêu chuẩn nghiên cứu, tuổi trung bình là 6.3 ± 2.7, tỉ lệ nam/nữ ~ 2/1. Đa số trường hợp cónguyên nhân là do tai nạn ngã chống tay (87.5%). Phần lớn bệnh nhân vẫn có bàn tay hồng (96.4%), ấm (76.8%) nhưng mạch quay mất hoặc yếu. Siêu âm trước mổ 100% trường hợp nhưng chỉ phát hiện có tổn thương ĐM ở 7 BN (17.6%); cắt lớp vi tính thực hiện ở 37 BN phát hiện tổn thương động mạch cánh tay trên 36 BN (97.3%). Tổn thương giải phẫu bệnh trong mổ chủ yếu là co thắt mạch (38 BN-53.6%, nong mạch bằng sonde Fogarty và phong bế áo ngoài), đụng giập ĐM 16 BN-28.5% (cắt nối trực tiếp hoặc ghép mạch), huyết khối ĐM 2 BN (mở ĐM lấy HK). Sau mổ, tất cả bệnh nhân đều có bàn tay hồng ấm, mạch quay bắt rõ trở lại ở 87.5% bệnh nhân. Kết luận: Gãy trên lồi cầu xương cánh tay là một gãy xương thường gặp ở trẻ em, với tỉ lệ tổn thương mạch khá cao. Cần phối hợp siêu âm và chụp cắt lớp để xác định tổn thương. Phẫu thuật vừa là biện pháp điều trị lưu thông mạch, vừa là biện pháp chẩn đoán xác định tổn thương thực sự động mạch.
#Gãy trên lồi cầu xương cánh tay #trẻ em #chấn thương động mạch cánh tay
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ GÃY ĐỒNG THỜI LIÊN MẤU CHUYỂN VÀ DƯỚI MẤU CHUYỂN XƯƠNG ĐÙI Ở NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH BẰNG NẸP VÍT KHÓA TẠI BỆNH VIỆN VIỆT ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 517 Số 2 - 2022
Đặt vấn đề: Nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị gãy đồng thời liên mấu chuyển và dưới mấu chuyển xương đùi ở người trưởng thành bằng nẹp vít khóatại bệnh viện Việt Đức. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang hồi cứu và tiến cứu không đối chứng trên 32 bệnh nhân trưởng thành gãy kín đồng thời liên mấu chuyển và dưới mấu chuyển xương đùi được chỉ định kết hợp xương bằng nẹp vít khóa từ tháng 03 năm 2018 đến tháng 03 năm 2020 tại Bệnh viện Việt Đức. Kết quả: Đa số bệnh nhân ở độ tuổi từ 41 đến 60 tuổi (50%), trong đó nam giới chiếm tỉ lệ cao hơn (71,9%); tai nạn giao sinh hoạt là nguyên nhân dẫn đến chấn thương chiếm tỷ lệ cao nhất (46,9%) và loại tổn thương gãy xương đơn thuần không kèm chấn thương cơ quan lớn kèm theo chiểm tỉ lệ cao nhất (90,6%). Kết quả chungtốt và rất tốt chiếm tỷ lệ cao 84,4%, trung bình là 12,5%, kém là 3,1%. Kết luận: Gãy đồng thời liên mấu chuyển và dưới mấu chuyển xương đùi ở người trưởng thành là tổn thương nặng, ảnh hưởng đến vận động khớp háng. Phẫu thuật kết hợp xương nẹp vít khóa nhằm nắn chỉnh phục hồi về giải phẫu, cố định ổ gãy vững chắc, tạo điều kiện để tập phục hồi chức năng sớm sau phẫu thuật và mang lại kết quả tốt cho bệnh nhân.
#Gãy đồng thời liên mấu chuyển và dưới mấu chuyển xương đùi
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, XQUANG GÃY XƯƠNG HÀM TRÊN TẠI BỆNH VIỆN RĂNG HÀM MẶT TRUNG ƯƠNG HÀ NỘI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1A - 2022
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, xquang gãy xương hàm trên tại Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương Hà Nội năm 2021-2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 32 bệnh nhân được chẩn đoán gãy xương hàm trên tại khoa Phẫu Thuật Hàm Mặt Bệnh viện Răng Hàm Mặt Trung Ương Hà Nội từ tháng 7/2021 đến tháng 6/2022. Kết quả: Độ tuổi trung bình của các bệnh nhân là 24 (13-75 tuổi), nhóm tuổi từ 19-39 chiếm tỉ lệ cao nhất (50%), phần lớn là nam giới (87.5%), trong đó tai nạn xe máy là chủ yếu (78.13%). Triệu chứng mặt biến dạng và điểm đau chói/ khuyết bậc thang chiếm tỉ lệ cao nhất (93.8%), các triệu chứng khớp cắn sai, há miệng hạn chế (87.5%), bầm tím/ tụ máu quanh mắt (81.3%). Hình ảnh phát hiện được trên phim xquang blondeau, hirtz, CT conbeam lần lượt là 81.3 %, 40.6% và 100%. Kết luận: Gãy xương hàm trên gặp chủ yếu ở nam giới, trong độ tuổi từ 19 – 39 tuổi, nguyên nhân chủ yếu là tai nạn giao thông. Các triệu chứng lâm sàng khá đa dạng, phim thường được sử dụng để phát hiện đường gãy là blondeau, hirtz, CT conbeam. Gãy xương hàm trên thường gặp các tổn thương phối hợp như gãy gò má cung tiếp, vết thương phần mềm vùng mặt.
#gãy xương hàm trên #bệnh viện răng hàm mặt trung ương Hà Nội
Tổng số: 73   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 8